Thursday, November 17, 2022

Hoài niệm về người bạn Nguyễn Công Hạnh

Tôi và Hạnh sanh cùng năm con gà (Đinh Dậu 1957), Hạnh trẻ hơn tôi 7 tháng. Hai đứa lớn lên trong cùng một thành phố Cần Thơ; cùng đi Hướng Đạo - đạo Hàm Long nhưng khác đội; cùng học chung trường Phan Thanh Giản từ 1968 nhưng khác lớp (Hạnh theo Pháp văn, tôi theo Anh văn). Tóm lại là lúc đầu đời chúng tôi không biết gì về nhau, không biết sự có mặt của người bạn trong tương lai sau. Nhờ diễn đàn PTG6875 chúng tôi nhận ra nhau, nhất là sau khi Khải kể lại là Hạnh và Nguyễn Hoàng Giáp học chung lớp từ 1968 đến 1975, mà Giáp và tôi thì là 2 bạn chí thân trước khi tôi đổi trường lên học Pétrus Ký năm lớp 12. Tôi gọi điện thoại bắt đầu liên lạc với Hạnh đầu tháng 1 năm 2016. Sau đó thì qua lại bằng emails thêm 2 tháng, nói về chuyện tu thiền và Phật học. Sức kéo của đời sống hằng ngày một lần nữa đẩy chúng tôi xa ra, và không còn thấy cần liên lạc thêm.

Hạnh và tôi nhờ duyên lành cho 2 đứa làm bạn chí thân trong 13 tháng cuối đời của Hạnh. Cuối tháng 7 năm 2021, tôi tự nhiên và vô cớ cảm thấy buồn không chịu nổi, cần một người bạn để an ủi. Tên Hạnh hiện ra trong ý mặc dầu chúng tôi đã mất liên lạc gần 5 năm. May mắn là Hạnh trả lời số phone ngay lúc ấy, và thốt lên “Quân, bác sĩ Quân , you gave me a goose bump”. Hạnh cho biết thêm là Hạnh đang khủng hoảng tinh thần tột độ vì bác sĩ mới chứng nhận chắc chắn là Hạnh bị ung thư ruột đoạn cuối, khó sống ngoài 6 tháng. Từ đó, chúng tôi gọi điện thoại hàng tuần, trao đổi hàn thuyên cả giờ về đời sống, sức khỏe và tu tập. Hạnh muốn được sống một cách an tâm để được hưởng tối đa tình thương gia quyến, thầy trò và bè bạn trước khi lìa đời, thay vì cứ lo lắng hoàn toàn vấn đề y tế cho cái thân đang tan rã, nên đã từ chối mọi cách chữa trị của bác sĩ, vì họ nhấn mạnh là không có cách nào bảo đảm là có hiệu lực trị bệnh, chỉ hy vọng một phép lạ (miracle) thôi . Quyết định ấy thật vô cùng can đảm nhưng không phải vì tuyệt vọng, mà đó là do sự cân nhắc có trí tuệ. Hạnh cùng vợ về hưu sớm, bỏ công sức tìm cách ăn mới - lành và bổ dưỡng, tìm cách thể dục và du ngoạn vùng khí hậu tốt, tinh tấn trong việc tu tập, tạo cơ hội đoàn tụ gia đình và hội họp bạn bè. Hạnh cho tôi được chứng kiến thêm thế nào là một cái chết đẹp mà người đời ai cũng thầm ước mong nhưng ít người được hưởng.

Cái chết đẹp là kết quả của một cách sống cận tử ý nghĩa nhất của ta. Trên mặt lý trí và suy nghĩ thông thường, ai cũng chấp nhận là làm người thì phải chết. Trong thực tế, đa số đều tìm đủ cớ để tránh sự thật hiển nhiên. Tài tử điện ảnh Woody Allen đùa rằng : “I just don’t want to be there when it (death) happens!”. Tưởng rằng không nghĩ đến hoặc không phải đương đầu với một biến cố hiển nhiên trong đời thì không sao, ta cứ lo sống như không bao giờ sẽ chết, vì nghĩ đến nó làm đời ta thêm ưu tư đen tối. Tư tưởng ấy suy cho kỹ thì sẽ thấy rõ sự sai lầm to lớn: cách sống và cách chết không thể tách rời như ý đời vọng tưởng. Tôi nhận thấy trước mắt rất gần với nhiều chi tiết do Hạnh chia sẻ - cách Hạnh lìa đời thật đẹp vì Hạnh giữ được cuộc sống tự nhiên an lành cho đến cùng. Kinh nghiệm nhà nghề đã cho tôi thấy nhiều trường hợp khác những cảnh chết thật là thê lương tội nghiệp cho cả bệnh nhân và người thân của họ, chỉ vì họ không có nơi nương tựa trên tinh thần nên không biết chọn đường sống an lành nhất cho mình và cho người thân bên cạnh mình khi biết sự chết gần kề để có một cái chết đẹp. Nhiều người nói hay mong rằng chết đẹp nhất là ra đi trong lúc ngủ mê, trong khi thực tế thì chẳng có ai chết vì giấc ngủ. Người ta chỉ có thể chết vì bệnh, tai nạn, thiên tai, hoặc bị giết. Luật trên nước Mỹ không cho phép bác sĩ ký giấy khai tử là một người nào chết tự nhiên vì tuổi già, mặc dầu đại thọ trên 100 tuổi. Với thái độ “còn nước còn tát”, “bệnh thì phải chữa “, thân họ bị khổ đau do nhiều căn giải phẫu hoặc phản ứng của những liều thuốc mạnh, tâm vẫn điên đảo vì vẫn biết là không có cách nào thoát bệnh và thoát chết. Không ai cho rằng chết đẹp khi thân bị thuốc gây mê và phổi đang gắn vào bộ máy hô hấp nhân tạo, nhưng đó là kết quả không tránh được khi bệnh nhân hoặc thân nhân muốn làm mọi cách để trì hoãn sự chết.

Thống kê của USA năm 2020 cho biết trong số trên 3 triệu người chết năm đó, chỉ có 20% là biết trước mình sẽ chết vì căn bệnh đang có. Thế thì, chuẩn bị cho cái chết đẹp đồng nghĩa với cách sống đẹp cho quãng đời còn lại. Hạnh chắc là không biết cái thống kê này, nhưng nhờ có đời sống tinh thần thanh tịnh trong Đạo Pháp đã lâu, nên dầu bị hoảng hốt lúc biết rằng căn bệnh ung thư mình không thể nào chữa lành, Hạnh chỉ cần sự hỗ trợ của gia đình, sư thầy, đạo hữu và bạn thân là tìm ra ngay con đường sống an lành cho đến phút cuối cùng. Tuy vậy, lực sinh tồn của cơ thể con người mạnh không thể tưởng tượng được, mà chỉ thấy nó khi nguy cơ thật sự hiện hình trong thân. Hạnh cũng bị sức mạnh của lực này hành hạ thử thách nhiều lần trong 3 tháng cuối. Từ đầu đã từ chối cách chữa bệnh bằng chemotherapy mong được sống chết theo thiên nhiên với thực dưỡng rau trái làm thuốc, để cho “nghiệp” dìu dắt cuộc đời. Thế nhưng nhiều lần muốn đổi ý dầu biết nó chỉ đem đến nhiều giải phẫu, ra vào nhà thương, kiệt sức, ói mửa và ảo tưởng chứ không chắc có hiệu quả trị liệu. Ý khi điên đảo, thân chắc chắn bất an - sống thế là khổ. Nhờ lòng tin của Hạnh vào Tam Bảo (Phật Pháp và Tăng ), nhờ sự hỗ trợ chung quanh, Hạnh giữ được cuộc sống rất đẹp, không chemotherapy, vẫn chơi pickleball, du lịch, đi ăn cưới và tiệc với người thân, hướng dẫn khóa thiền cho đến 3 tháng trước khi bị triệu chứng cancer metastasis hành hạ. Trước khi bướu ung thư xâm nhập đến lá gan, Hạnh định qua California chơi tháng 7 để gặp người bạn Cần Thơ này, và cũng được du ngoạn biển Thái Bình Dương. Tiếc thay, dự định ấy không thành. Thân bị hành, nhưng tâm Hạnh rất vững cho đến cùng. Những lời cuối đời của Hạnh gửi cho tôi:

“Hi Bạn hiền,
I want to say from the bottom of my heart. You are the only doctor in my life that tries to ‘care’ for me than try to ‘cure’ for me and I will never forget that. With metta”


Lần phone cuối cùng giữa 2 người bạn 2 ngày trước khi Hạnh mất, Hạnh nhớ lời khuyên của tôi 3 tháng trước và nhờ tôi chỉ cách đem tập đoàn hospice đến nhà phụ vợ Hạnh trong việc săn sóc trong giai đoạn cuối. Sự tiếc nuối không được gặp một lần trong đời tại Mỹ đã tỏ, tình bạn bè và đạo hữu sâu đậm đã nhắc lại, và lời vĩnh biệt đã thốt lên.

Theo lời vợ Hạnh kể lại, trước giờ lìa trần, Hạnh được thầy mình là Ngài Thiền Sư Bhante Gunaratana gọi điện thoại và hướng dẫn tâm Hạnh trút bỏ mọi lưu luyến với đời để đi về cõi Không.

Một bài thơ / tụng để tưởng niệm một người bạn hiền, cũng là người thầy cho tôi thêm một bài học vô cùng quý báo về sự thật về đời người, theo lời Phật dạy.

Thế Tôn lời dạy tỏ tường
Năm điều quán tưởng phải thường xét ra:

1) Ta đây phải có sự già
Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn.
2) Ta đây bệnh tật phải mang
Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành
3) Ta đây sự chết sẳn dành
Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ.
4) Ta đây phải chịu phân ly
Nhân vật quí mến ta đi biệt mà
5) Ta đi với nghiệp của ta
Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình.
Theo ta như bóng theo hình
Ta thọ quả báo phân minh kết thành.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Minh Từ Nguyễn trung Quân
California , tháng 9, 2022

Hai tấm hình Hạnh gửi:




Hạnh và Dung đi thăm nhà thờ cổ tại Santa Fe, New Mexico tháng 11, 2021







Hanh’s personal license plate (Vipassana là Tuệ Quán )

Bảng số xe đặc biệt (cá nhân) của Hạnh

 



Định Mạng đã an bày?


Tuy không gặp lại bạn Hạnh lần nào kể từ ngày Hạnh và gia đình vượt biên năm 1978, nhưng những năm gần đây tôi vẫn thường xuyên liên lạc với Hạnh qua email, điện thoại và mong một ngày nào đó chúng tôi lại tái ngộ với nhau “tay bắt mặt mừng”.

Năm 2016 là một năm đánh dấu “Buổi họp mặt Mini ở Mỹ” lần đầu tiên và thành công nhứt của nhóm bạn PTG 68-75 tại thành phố Houston, tiểu bang Texas vì quy tụ khá nhiều bè bạn khắp nơi. Đó là lần 2 bạn Đức và Sĩ Ân từ Việt Nam qua Mỹ du lịch. Kỳ đó đã có 2 bạn trong lớp 12B2 của tôi là Nguyễn Công Hạnh và Phan Công Lợi cùng về tham gia. Đáng tiếc là tôi vẫn chưa có dịp làm một chuyến Mỹ du để gặp các bạn và Thầy Cô cũ để cùng nhau hàn huyên tâm sự.


Năm nay (2022) bạn Đức đã nhắc lại trong Facebook như sau:

Năm 2016, MỘT KỶ NIỆM NHỚ MÃI ☆

▪Cách đây 6 năm chúng tôi đã có bốn ngày vui sống cùng nhau ở Houston (Mỹ) giữa những bạn bè một thời trường Phan sau hơn 40 năm xa cách. Và đặc biệt có sự tham dự của cô Trinh Cát (gs. Vạn vật) cùng Thầy & bé Bo...

▪Mời các bạn xem lại phóng sự ảnh đêm đầu tiên của nhóm.





Đến ngày 21-4-2019 bạn Sĩ Ân từ VN du lịch qua Mỹ một lần nữa và lại có dịp hội ngộ với Hạnh cùng vài bạn khác như những ghi chú của Ân trong vài tấm hình lưu niệm: “Một buổi tiệc họp mặt thân tình vui vẻ của các cựu học sinh Phan Thanh Giản Cần Thơ tại Virginia-"






Có thể nói quãng thời gian từ năm 2015 đến 2019 là những năm tươi đẹp nhứt của Hạnh khi bạn tham gia nhiều hoạt động từ thiện, tu Thiền, gặp gỡ bạn bè trong những dịp họp mặt với nhiều bạn cũ thời sinh viên. Có thể thấy thần sắc của Hạnh rất tươi vui, rạng rỡ, yêu đời.

Năm 2019 bạn Hạnh cũng ở trong ban Tổ Chức Đại Hội CHS Phan Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm Thế Giới ở tiểu bang Maryland và Hạnh cũng là người giới thiệu chương trình (MC) cho Đại Hội này.







Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, thế giới lại một phen xôn xao với biến động mới là đại dịch Covic-19 nên mọi sinh hoạt của các hội đoàn, ái hữu cựu học sinh gần như ngưng trệ.

Bỗng nhiên, cách đây đúng một năm, vào ngày 1 tháng 8 năm 2021, tôi nhận được email và điện thoại của một người bạn đang là Bác sĩ ở California báo một tin khá bất ngờ: “Bạn Nguyễn Công Hạnh mới phát hiện ra đang bị một chứng bịnh ung thư rất hiếm khi xảy ra là ung thư ở phần ruột dư (cancer of the appendix) trong lúc tình cờ khám phá khi bạn ấy đi làm Catscan (computerised tomography scan) thử nghiệm để coi có bị sạn thận hay không?”

Hạnh cho biết bạn cũng khá lo âu và tinh thần hơi dao động. Tuy nhiên, Hạnh nhứt định không theo phương pháp trị bịnh của Tây Y như Hóa Trị (chemotherapy) mà em gái của Hạnh là Hồng Phượng đã từ trần sau một thời gian điều trị chứng ung thư phổi (lung cancer) hồi năm 2006 khi Phượng vừa tròn 43 tuổi. Hạnh kiên quyết không chịu bó tay mà theo phương pháp tân dưỡng sinh và tự mình trị bịnh bằng thuốc nam và dược thảo thiên nhiên (như rong biển Nhựt Bổn) … cùng với sức mạnh tâm linh độ trì qua cơn khổ nạn này.

Hạnh cho phép người bạn bác sĩ chuyển đi hung tin này cho các bạn thân thiết của trường Phan Thanh Giản Cần Thơ và nhóm bạn Hướng Đạo ngày xưa.

Từ đó trở đi vài người bạn khắp nơi đã lập ra một nhóm nhỏ gọi là “Nhóm Chủ Nhật 9 giờ sáng” trên Messenger của facebook để thường xuyên họp mặt. Hàng tuần các bạn đã gặp Hạnh “online” trên mạng … chia sẻ những vui buồn, kể chuyện tiếu lâm, chọc ghẹo nhau, chuyện thời sự … và theo dõi quá trình điều trị của Hạnh. Lúc nào bạn Hạnh cũng chuyện trò vui vẻ (được vài chục lần) với tâm trạng rất lạc quan và niềm tin cùng ý chí vững chắc để tiếp tục vượt qua nghịch cảnh.

Được biết trên mười năm nay, tuy cùng làm công chức cho chánh phủ liên bang Hoa Kỳ,
Hạnh và bà xã là Ngọc Dung đã tu thiền nhiều năm theo Phật Giáo Nguyên Thủy (Therevada), và cũng giúp thành lập 2 hay 3 tu viện, đang là Thành viên tronng ban Quản Trị của Bhavana Society - một thiền viện lớn ở West Virginia.

Sau hơn 4 tháng tự mình điều trị căn bịnh hiểm nghèo, Hạnh cảm thấy tinh thần rất lạc quan, và sức khoẻ có phần tiến triển tốt đẹp hơn. Trong dịp cuối năm 2021 Hạnh từ Virginia trở về Texas thăm gia đình và đã có một buổi hội ngộ thật vui vẻ, ấm áp với các bạn cũ như tấm hình bên dưới đây do bạn Kim Minh đăng trên trang Facebook cá nhân.







Trong lúc bạn Hạnh đang lạc quan tự mình điều trị căn bịnh nan y của bạn một thì một biến cố bất ngờ xảy ra trong gia đình khiến cho bạn Hạnh bị suy sụp tinh thần rất nhiều. Đó là người em trai của Hạnh tên là Tony Hiếu đã từ trần ngày 19 tháng 1 năm 2022 tại Houston, Texas cũng vì chứng bịnh ung thư ruột và cũng đang điều trị theo phương pháp dưỡng sinh tự nhiên y như Hạnh. Từ nhỏ cho đến khi bị bịnh nặng ở giai đoạn cuối (di căn qua gan), Tony Hiếu đã sống rất khoẻ, ít khi bị đau ốm và ít khi đi khám bịnh.

Thời gian chậm chạp trôi qua, lúc sau này Hạnh ít khi liên lạc với bạn bè. Email cuối cùng mà Hạnh gởi cho tôi là ngày 20 tháng ba, 2022. Hạnh viết ngắn gọn:

“Trong tuần này chúng ta mất ba người mẹ của bạn bè mình đó Khải.
-Mẹ Quân
-Mẹ An
-Mẹ Xê
Mong các bác sớm về cõi Phật.
Hạnh”

Hạnh đã nhắc đến tin buồn của ba người bạn Nguyễn Trung Quân, Cần Minh An và Đỗ Văn Xê.




Bốn tháng sau thì Hạnh đã vĩnh viễn ra đi tại nhà riêng bên cạnh những người thân.

Cô Trinh Cát đã viết những dòng tâm sự dành riêng cho nhóm bạn PTG 68-75 của chúng tôi ngày 18-7-2022 như sau (xin trích):

Thật bàng hoàng khi nghe tin em Nguyễn Công Hạnh (hay Steve Nguyễn) đã ra đi về miền miên viễn.
Dưới mắt tôi, em Hạnh đúng là một mẫu người hiếm có như Sĩ Ân mô tả: một Hướng đạo sinh chân chính, một người chủ gia đình tuyệt vời, một người tốt bụng, nhiệt tình, yêu thương con người.
Ngoài ra em còn hành Thiền hàng ngày đã nhiều năm nay và có một hiểu biết sâu sắc về triết lý đạo Phật. Với pháp danh Minh Tuệ, em đã cùng với Minh Tánh trong nhóm Sinh Thức ở Virginia, có những hoạt động và những bài giảng, bài viết rất hay về Phật Pháp mà có một thời chúng tôi rất ái mộ.
Tôi biết được điều này khi nói chuyện với Hạnh trong Mini Họp Mặt 5 ngày với các em PTG68-75 do LH Nam và bạn bè tổ chức ở Houston bắt đầu ngày 15/6/2016.

Em Hạnh có vẻ ngoài điềm đạm, ít nói của một người tu hành. Em là người đã đón chúng tôi tại phi trường Hobby, Houston và đưa đến nơi họp mặt và sau đó giúp chúng tôi di chuyển trong thành phố cho đến khi vợ chồng em Phan Công Lợi đến sau vài ngày, và vì cùng ở chung khách sạn nên Lợi đã giúp chúng tôi di chuyển sau đó.

Giờ thì Lợi và Hạnh đều đã ra đi làm chúng tôi không khỏi bùi ngùi thương tiếc cho hai con người đức hạnh, tốt bụng và tài giỏi nhưng vắn số!

Xin chân thành chia buồn cùng gia đình em Hạnh và xin cầu chúc cho hương hồn em sớm được về cõi Phật A Di Đà. Em vẫn sống mãi trong lòng bạn bè và những người yêu quý em trong đó có tôi!




Hoàn toàn đồng ý với những lời nhận xét của cô Trinh Cát dành cho người bạn hiền lành Nguyễn Công Hạnh và cầu xin cho hương linh của bạn yên nghĩ đời đời nơi cõi vĩnh hằng.

LTK 30-8-2022

 

Thêm một người bạn vừa vĩnh viễn ra đi!

Trong vài ngày qua, những tin tức dồn dập lan truyền cho nhau trong đám bạn bè khắp nơi về sự vĩnh viễn ra đi của Nguyễn Công Hạnh, một người bạn rất dễ thương trong nhóm cựu học sinh Phan Thanh Giản Cần Thơ niên khóa 1968-1975, đã khiến cho nhiều đồng hương, đồng môn phải ngậm ngùi, thương tiếc cho phần số của anh ta.

.



Nguyễn Công Hạnh, mà các bạn hay gọi là “Hạnh Ngô Quyền”, vì nhà của Hạnh là tiệm Thuốc Tây Ngô Quyền ở kế nhà sách Văn Nhiều (một nhà sách lớn nhứt miền Tây) và Hạnh là cháu nội đích tôn của ông Văn Nhiều. Trước năm 1975 gia đình của Hạnh là một trong những gia đình nổi tiếng ở Cần Thơ.

Lúc nhỏ, tôi không quen biết gì với Hạnh vì chúng tôi học khác lớp và nhà cửa hai đứa cũng ở xa nhau. Thỉnh thoảng tôi cũng thấy Hạnh và các bạn đi học thêm lớp toán của Bác Tư (Thầy Lương Hồng Tư) ở Tham Tướng và buổi tối học lớp Anh Văn của Hội Việt Mỹ tổ chức ở trường Nữ Tỉnh Lỵ.





Mãi cho đến năm 1974 tôi mới có dịp học chung lớp với bạn Hạnh ở lớp 12B2. Đó là lớp học cuối cùng ở hành lang trên lầu của dãy ba. Phân nửa lớp là các học sinh có sinh ngữ chánh là Anh Văn và phân nửa là Pháp Văn sinh ngữ chánh. Lớp 12B2 có 5 nữ sinh mới thi vào PTG gồm các chị Thanh Nhàn, Thanh Thủy, Kim Thoa, Thanh Tâm và Kim Tuyết. Có khoảng 10 bạn nam sinh từ các trường khác thi tuyển vào cùng lúc với 5 nữ sinh nêu trên. Còn lại 30 nam sinh chúng tôi đều học chung trường PTG từ năm 1968.

Tất cả đã nhanh chóng trở nên thân thiết với nhau từ những ngày đầu niên học. Tôi có may mắn là ngồi bàn đầu bên góc trái, kế bên Nguyễn Công Hạnh và cùng bàn với Trần Quang Khải và Nguyễn Hoàng Giáp, suốt năm lớp 12 nên rất thân nhau. Bàn đầu và bàn nhì bên tay mặt là các chị Kim Thoa, Thanh Nhàn, Thanh Thủy, Thanh Tâm và Lê Kim Tuyết.





Ngồi ở bàn đầu chúng tôi có lợi thế là chăm chú theo dõi và nghe rõ bài giảng của Thầy Cô. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hay “nhắc tuồng” hoặc “cứu bồ” cho nhau khi các bạn bị Thầy Cô kêu lên bảng trả bài. Tánh tình của Hạnh rất hiền hòa, dễ mến, nói năng nhỏ nhẹ nên dễ dàng gây thiện cảm với mọi người. Tuy không phải là một học sinh học giỏi nhứt lớp, nhưng Hạnh cũng thuộc vào “Top Ten” của lớp và sẳn sàng giúp các bạn giải những bài toán khó hay tập làm những đề thi Lý Hóa hóc búa mà các bạn sưu tầm được và truyền tay nhau ghi chép. Trong khi đó thì có những bạn khác hay chăm chú đọc sách và trầm tư mặc tưởng, ít tham gia thảo luận nhóm như “triết gia” Phan Công Lợi hoặc thường nghiên cứu các course quay ronéo luyện thi vào Dự Bị Đại Học Sài Gòn như Trần văn Sô. Siêng học nhứt vẫn là các bạn Đỗ Văn xê và Ôn Bích Hà, Nguyễn Hoàng Giáp… Nhóm bạn ngồi bàn đầu của chúng tôi hầu như ít thi tham gia những tiết mục chọc phá bạn bè hay “cúp cua” bỏ học vài môn “nhiệm ý” như các bạn ở “xóm nhà lá” ngồi ở cuối lớp học.

Suốt những năm học Trung học, Nguyễn Công Hạnh và các bạn cùng trường đã có những buổi sinh hoạt Hướng Đạo cuối tuần hoặc đi học thêm, học võ, học nhạc với nhau, nên hầu như ai cũng siêng năng bận rộn ngoài giờ học ở trường chớ không lè phè, nằm nhà đọc tiểu thuyết kiếm hiệp và trinh thám như tôi.

Trong một bài viết của anh Nguyễn Trung Nam (PTG 1966-1973) về “Kỷ niệm Trại họp bạn Hướng Đạo toàn quốc lần cuối cùng” tại Tam Bình, Thủ Đức từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 12 năm 1974. Tổng cộng dân số trong đạo Hàm Long của Cần Thơ khoảng chừng 30 người, trong đó có nhắc đến hai bạn Nguyễn Công Hạnh và Trương Tiếu Hy (lớp 12B2) tham dự và tôi đã thấy Hạnh trong bức hình đính kèm (ngồi hàng đầu, bên trái có dấu *). Nghe nói ngoài hai bạn trên còn có các bạn Lê Hoàng Trung, Phan Quang Thuận và Đặng Hoàng Tạo (em của Đặng Hoàng Tân) cũng có tham dự trại họp bạn Hướng Đạonày.











Theo lời anh Nam kể lại: “Những ngày đầu, chúng tôi bận rộn xây dựng một cổng trại quy mô cao lớn, kế bên là những mái lều kiểu nhà sàn, cũng lắm công phu và hợp với châm ngôn trại. Sau đó là những giờ thực tập cho ngày khai mạc ngoài sân cỏ rộng. Nhiều lần phải thực tâp diễn hành, theo đội hình của mỗi đơn vị sao cho có thứ tự và đẹp mắt dành cho ngày trọng đại…”





Sau khi ăn Tết năm Ất Mão (11-2-1975), chúng tôi bắt đầu chuyên cần, chăm chú với những buổi học hàng ngày ở trường Phan Thanh Giản. Buổi tối, khoảng 15 bạn trong lớp tôi và các bạn ở lớp 12B1 như Lâm Thiện Khanh, Nguyễn Thị Ngọc Cẩm, Lý Tú Nhanh …đã đến tư gia của thầy Đoàn Văn Út kế tiệm may Long Thành ở đường Phan Đình Phùng để học lớp luyện thi Toán, giải đề thi. Mỗi tuần học ba buổi ở lớp học trên lầu ba, nên chúng tôi có dịp làm quen với một số bạn ở vài trường khác kể cả vài quân nhân đang mặc quân phục cũng đến học luyện thi Tú Tài.

Trong khi đó, tình hình chiến sự càng ngày càng leo thang và những tin tức bất lợi đang loan truyền khắp nơi với những cuộc di tản và rút quân từ miền Trung càng lúc càng nhiều. Trong giờ nghỉ để đợi Thầy Cô lúc đổi môn học, các bạn hay tụ tập ngoài hành lang lớp học để bàn chuyện chiến sự hàng ngày. Lớp tôi có rất nhiều bạn có cha hoặc chú bác là sỹ quan cao cấp trong Quân lực VNCH. Tuy thời cuộc sôi động như vậy, nhưng quý Thầy Cô cũng bình tỉnh giảng dạy theo đúng chương trình lớp 12 cho đến ngày “đổi đời” 30 tháng Tư năm 1975.





Cuối tháng 5 năm 1975, trường Phan Thanh Giản bị chánh quyền Quân Quản tiếp thu để làm nơi giam giữ sỹ quan cấp Úy VNCH trong 3 tháng trước khi chuyển đi trại “Cải tạo” ở Chi Lăng, Châu Đốc. Các lớp học của chúng tôi phải dời qua trường Đoàn Thị Điểm học thêm vài tháng trước khi dự thi “Tú Tài cách mạng” (Tốt nghiệp phổ thông). Trong lớp tôi có vài bạn bỏ học về quê, không dự kỳ thi này vì không có hy vọng học tiếp lên Đại Học.





Thời gian đó, các bạn trong lớp 12B2 của chúng tôi lại có dịp sinh hoạt với nhau nhiều hơn ở những buổi chiều tối hội họp, tập văn nghệ ở trường Nữ hay bên trường Đoàn Thị Điểm, những buổi trình diễn Văn Nghệ toàn thành phố. Những lớp buổi tối dạy tình nguyện “Bổ Túc Văn Hóa” chống nạn mù chữ (ở trường Võ Tánh) đều có Hạnh và các bạn khác tham gia rất nhiệt tình.
Sau khi thi đậu Tú Tài “cách mạng” vào ngày 20 tháng 9 năm 1975, vài đứa bạn thân trong lớp chúng tôi bèn rũ nhau nộp đơn thi vào Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ ở Sài Gòn. Đến ngày thi, nhóm chúng tôi gồm Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Công Hạnh, Trần Quang Khải, Nguyễn Ngọc Điệp và tôi cùng đón xe đò lên Sài Gòn ở trọ nhà cô của Trần Quang Khải để đi thi. Đúng là “ếch ngồi đáy giếng” vì cả bọn đều rớt hết sau khi có kết quả. Sau này nghe nói chỉ có hai bạn Cao Khắc Nghiệp và Phạm Công Thành là đậu vào Phú Thọ mà thôi. Những bạn khác không đi thi ở Sài Gòn thì thi ở Đại Học Cần Thơ như Đỗ Văn Xê, Ngô Minh Hùng, Lưu Thị Thanh Nhàn, Võ Minh Trinh... hoặc học Sư Phạm Long Xuyên như Kim Tuyết, Nguyễn Hữu Hoàng ...

Trong những ngày tháng chờ đợi kỳ thi vào Đại Học Cần Thơ khóa 2 năm 1976, chiều tối khi thành phố đã lên đèn, tôi hay chạy xe đạp ra đường Ngô Quyền, ghé ngang trước cửa nhà của Nguyễn Công Hạnh, kế bên tiệm thuốc tây Phong Dinh và Trung Việt. Ở đó tôi thường gặp các bạn cùng lớp như Bùi Thanh Dũng, Trương Tiếu Hy, Huỳnh Trung Sơn, Đặng Hữu Liêm… mà bàn tán, tâm sự với nhau đủ chuyện và nghe ngóng mọi tin đồn về bạn bè Thầy Cô ai còn ai mất. Đa số là chuyện vượt biên và bàn nhau tìm cách vượt thoát khỏi đất nước này. Những bạn đã may mắn di tản khỏi VN trước ngày 30-4-1975 gồm có Trần Tấn Quý, Lê Cảnh Bằng, Lương Hoàng Nam, gia đình anh Nguyễn Trung Nam và bạn Nguyễn Trung Quân…

Đến năm 1978 tôi được tin cả gia đình của bạn Hạnh “Ngô Quyền” đã vượt biên thành công (có lẽ là đi theo ngã Rạch Giá để ra biển). Chuyến đi này cũng có gia đình của cựu Hiệu Trưởng PTG là giáo sư Trương Quang Minh đi chung và sau đó gia đình GS Minh qua Úc, còn gia đình Hạnh thì đi Mỹ định cư. Cuối năm 1978 bạn Trương Tiếu Hy cũng vượt thoát được qua ngã Vũng Tàu. Riêng tôi thì ra đi từ sông Hậu Giang Cần Thơ năm 1980 với một thằng em trai cũng thành công và sau đó qua Úc định cư.

Kể từ khi rời Việt Nam, tôi không còn liên lạc được với bạn Hạnh và nhiều bạn khác trong lớp 12B2. Mãi cho đến năm 2011, khi tham gia sinh hoạt với Hội ái hữu cựu học sinh Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm hải ngoại, tôi mới tìm ra được tung tích của bạn Nguyễn Công Hạnh và sau đó là Trương Tiếu Hy và vài bạn khác ở Mỹ như Phan Công Lợi, Nguyễn Trung Quân và Ngô Thiện Trung… Cũng nhờ bạn Trung mà nhóm PTG 68-75 chúng tôi đã liên lạc được với cô Phạm Thị Trinh Cát, Đoàn Thị Tâm và thầy Đoàn Văn Cường.



Nhờ anh Nguyễn Công Danh (Trần Bang Thạch), Đại diện PTG-ĐTĐ USA ở Houston là chú của Hạnh giúp đỡ nên tôi đã điện thoại nói chuyện với Hạnh nhiều lần và kể cho nhau những vui buồn, những bạn bè Thầy Cô, trường xưa phố cũ đã mịt mờ trong tâm trí. Hạnh cho biết khi còn ở Texas, bạn đã gặp được Tiếu Hy, Lưu Hiếu Nhân, Hoàng Nam, Cảnh Bằng và rất nhiều đồng hương Cần Thơ nhưng giờ thì gia đình Hạnh đang sinh sống và làm việc ở Virginia.




Trước đó vài năm, Hạnh và gia đình đã trở về Cần Thơ thăm viếng và có dịp gặp lại các bạn cũ như Nguyễn Sĩ Ân, Nguyễn Văn Đức cùng nhiều bạn khác. Sau đó, Hạnh cũng chính là người đầu tiên đã gởi cho tôi cái đường LINK chụp hình “Buổi họp mặt truyền thống của nhóm PTG 68-85” năm 2011 ở khuôn viên trường cũ do bạn Nguyễn Văn Tuyết (Tý) chuyển tải rất nhiều hình ảnh lên Picassa miễn phí. Nhờ vậy tôi mới có dịp nhìn lại được từng khuôn mặt bạn bè và Thầy Cô đang ở quê nhà sau 30 năm xa cách.

Đó là khoảng thời gian nhóm 68-75 của chúng tôi hoạt động liên tục và mạnh mẽ nhứt, đa số là qua email, điện thoại chớ chưa có trang Facebook của nhóm.


Sau chuyến du lịch của Nguyễn Văn Đức qua Úc và Âu Châu (2012), nhóm 68-75 của chúng tôi đã thành lập được một cái Forum (diễn đàn) trên mạng do công lao của Phượng Nghi là con trai của bạn Trần Cẩm Quỳnh Như thiết lập và phụ giúp điều hành. Trang diễn đàn này http://www.ptg6875.info vẫn hoạt động đều đặn cho đến hôm nay với sự đóng góp bài vở và hình ảnh xưa nay của rất nhiều bạn nồng cốt như Trần Cẩm Quỳnh Như, Nguyễn Phong Hoàng, Lê Chí Thanh, Đặng Hoàng Tân, Ngô Thiện Trung, Hoàng Ngọc Sinh, Lê Kim Tuyết … sau đó là Nguyễn Trung Quân và Nguyễn Công Hạnh cũng tham gia rất nhiệt tình. Đặc biệt là cô Phạm Thị Trinh Cát, thầy Lê Văn Quới và thầy Phạm Khắc Trí cũng đã gởi bài cho chúng tôi để được trang trọng đăng lên diễn đàn. Thời gian sau này, diễn đàn PTG 68-75 đã dần dần vắng lặng vì mọi người đều chuyển qua xài Facebook với nhiều chức năng linh hoạt và thú vị hơn nhiều.





Nhìn lại trong khoảng hơn 2 năm tham gia diễn đàn, bạn Nguyễn Công Hạnh đã gởi nhiều bài phê bình, nhận xét, góp ý (tổng cộng 82 đoạn văn). Xin trích lại đây vài bài viết tiêu biểu của bạn Hạnh để cùng cảm thông cho những suy nghĩ của bạn mình.

*Ngày 2-1-2016: Sau khi đọc tâm sự của Cô Trinh Cát cho biết đã hưu trí (retire), bạn Hạnh đã viết:

“Chúc mừng Cô đã về hưu và đã thật sự hưởng được những giây phút êm đềm thảnh thơi ngày sau khu vườn của mình mà chẳng cần đi đâu cho xa cả.
Thế thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói thật hay là ông móc mình khi viết hai câu thơ sau đây vậy Cô:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.”
Nghe cô diễn tả cái biết đủ của cô làm những người còn đi làm như hạnh cảm thấy 'envy' với Cô đó và cũng muốn làm người 'dại' như NBK đã diễn tả ở trên.
Cám ơn và chúc cô một năm mới an nhiên tự tại.
Hạnh12B2

*Sau bài nhận xét về tệ nạn rượu chè trong giới trẻ của cô Trinh Cát, bạn Hạnh đã cho ý kiến:

“Bài viết của Cô chia sẽ thật là hay và thực tiễn nhất là sắp đến những dịp lễ, hội hè bên quê nhà cũng như ngoài nước. Cô chẳng những viết đến những khía cạnh y học mà còn chia sẽ thêm về những kinh nghiệm trong nghề cũng như những kinh nghiệm bản thân. Hạnh hoàn toàn đồng ý với Cô qua những nhận xét và phân tách về những câu mà chúng ta vẫn thường nghe về việc rượu chè bên VN.

Hạnh còn nhớ cách đây vài năm có về thăm lại quê nhà và đang trong lúc ngồi ăn trong một nhà hàng với gia đình đột nhiên nghe mấy tiếng ồn ào thật to 'dzô dzô dzô' và quay lại mới thấy mấy anh chị đang cụng ly bia với nhau rất là hồ hởi phấn khởi.

Đọc đi đọc lại Hạnh thấy hai câu mà cô đặt ra rất hay và nhiều ý nghĩa: 'Có phải vì hoàn cảnh xã hội? Sự yếu đuối lý trí đă khiến ông không cưỡng nổi cám dỗ của những bữa nhậu nhẹt hoành tráng với không khí vui nhộn của nó?'.

Hạnh xin được đóng góp thêm ý kiến nhỏ của mình như vậy. H cảm thấy sự yếu đuối của lý trí thường dẫn chúng ta đến những sự suy nghĩ nguy hại hay khổ đau nhiều hơn vì theo h lý trí hay sự suy nghĩ dẫn đầu tất cả và chúng đưa ta đến những lời nói cũng như hành động sau đó. H tin rằng trước khi một người cầm ly bia hay tách rượu đưa lên miệng họ cũng có một ít ý thức một cảm nghĩ trong đầu là chất men này sẽ ảnh hưởng hay làm gì cho mình sau khi đã ném qua cái vị cay hay đắng của nó, hậu quả của nó sẽ ảnh hưởng như thế nào từ sức khỏe đến bao nhiêu việc không hay khác chung quanh ta.

Thực ra đâu có ai bắt mình phải uống đâu (it’s not life or death) chỉ là tự lý trí mình có muốn hay không mà thôi. Và nếu mà mình chịu nhìn thấy những hậu quả vô lường của nó thì có lẽ mình sẽ chậm lại và suy nghĩ nhiều hơn là cứ anh hùng chén anh chén tôi. Và khi chúng ta đã để con men lý trí nó dẫn đi rồi thì cho dù bất cứ đổ thừa hay biện hộ cho hoàn cảnh gì đi nữa cũng đều do vô minh, vướng mắc, ham muốn và vi cái tôi mà thôi.

Bài viết này của Cô cho thấy hậu quả của việc uống rượu như thế nào, h hy vọng chúng ta ít nhất cũng chậm lại và để ý thêm uống ít lại vài lon hay là hay hơn nữa là bỏ nó luôn. Đó mới là người có trí tuệ biết thương mình và thương những người chứng quanh mình.

Hạnh xin chúc Thầy Cô và tất cả các bạn một mùa Giáng Sinh an lành và một Năm mới 2016 an khang thịnh vượng.
Last edited by Hanh12B2; 21-12-2015 at 12:20 AM.

Còn đây là quan điểm của bạn Hạnh về ngày Lễ Vu Lan, cúng Cô Hồn và tục phóng sanh:

“Chào Cô Cát và các bạn,
30-8-2015
Các anh chị mến,
Theo Hạnh học và hiểu là trong đạo Phật Nguyên Thuỷ không có ngày lễ này mà nó có là do người Trung Hoa đặt ra theo phong tục tập quán của dân tộc họ và từ đó truyền xuống nước Việt mình. Vào thời đức Phật có một câu chuyện báo hiệu của Ngài Mục Kiền Liên (Moggalana), là một trong hai đại đệ tử của đức Phật (ngài Sariputta - Xá Lợi Phất và ngài Moggalana) đã dùng thần thông để xuống cõi dưới xem Mẹ mình bị trả nghiệp như thế nào và sau đó Ngài và các vị đại đệ tử của đức Phật cùng tăng đoàn đọc kinh và ngồi thiền để hồi hướng công đức đến cho bà Mẹ sớm được giải thoát, đầu thai trở lại kiếp người...

Và theo H nếu báo hiếu cho Mẹ Cha là một phước đức hay bổn phận thì chúng ta phải nên làm hàng ngày hàng giờ chứ đâu phải đợi đến ngày nầy một năm mới làm một lần. Chúng ta đôi khi cũng nên bắt đầu suy nghĩ lại xem những việc mình làm những gì mình tin có hợp với đạo đức, hợp với luật nhân quả không hay là vì bị mê tín dị đoan mà làm hay tin theo. Cũng như chúng ta vào Chùa cúng dường đức Phật mâm trái cây hay một ít tiền rồi mong cầu sẽ được trúng số hay thi đậu, thành tài, thành công... mà chính bản thân mình không có một sự cố gắng gì hết.

H. còn nhớ khi xưa cứ theo gia đình đi chùa vào những ngày lễ này mà không biết để làm gì và ai bảo đi đâu mình làm theo đó, nhưng sau này khi tìm hiểu sâu thêm thì thấy bất cứ việc gì chúng ta cũng nên lấy trí tuệ để nhận xét và thấy cho đúng trước khi mình tin hay làm theo. Đôi khi Hạnh thấy người Trung Hoa cũng như người Việt mình biến ngày này thành một big business. Xin có vài dòng chia sẻ.
Hạnh 12B2

Ngày 20-7-2015, các bạn thảo luận sôi nổi về việc “XÂY TRƯỜNG MỚI HAY CUỐN CHIẾU TRƯỜNG CŨ” (tức là đập phá trường PTG Cần Thơ và xây cất lại hoàn toàn một ngôi trường mới). Bạn Hạnh đã nêu lên ý kiến như sau:

Hạnh rất đồng ý với quan điểm của Trung (Ngô Thiện Trung) trên đây vì nếu chúng ta thật sự có lo lắng cho tương lai các em thì mái trường chỉ là một vật (object), một cái nhìn (perception) và nhất là chỉ là những kỷ niệm của quá khứ mà thôi. Những kiến thức, trí khôn, trí tuệ là do sự thực tập học hỏi và nếu các em có được môi trường thích hợp, tân tiến, tiện nghi thì có lẽ sẽ dễ dàng cho việc phát triển hơn là cứ quay về những kỷ niệm mấy chục năm trước.

Đời vô thường như Trung đã nói, nó đến rồi đi tại sao chúng ta không để cho nó qua đi mà níu kéo lại làm gì, chỉ là một kỷ niệm mà thôi mà kỷ niệm thì đôi khi có đẹp có hay nhưng cũng có buồn vậy. Nếu duyên của nó đã hết thì hãy để nó đi nhé các bạn.

Thân mến,
Hạnh12B2

< HẾT PHẦN 1, CÒN TIẾP >

 

Monday, September 21, 2020

“Kỷ Niệm Buổi Họp Mặt lần Thứ 7 (ngày 30-4-1995) của nhóm cựu học sinh Phan Thanh Giản niên khóa 1968-1975”


Kính thưa quý Thầy cô và các bạn,

Hôm nay tôi xin giới thiệu cuồn phim tài liệu phóng sự đặc biệt “Kỷ Niệm Buổi Họp Mặt lần Thứ 7 (ngày 30-4-1995) của nhóm cựu học sinh Phan Thanh Giản niên khóa 1968-1975” được tổ chức tại phòng truyền thống của trường xưa.

Đây là lần họp mặt rất quan trọng đánh dấu 20 năm, nhóm chúng ta rời trường (1975-1995) và cũng là 20 năm tên trường PTG đã hoàn toàn bị xoá mất thay thế bằng tên của Cựu học sinh Thầy giáo Liệt sĩ Châu Văn Liêm ở Ô Môn.

Nhiều vị Thầy thâm niên như Lâm Văn Ba, Trần Trúc Sơn và thầy Giám Thị Trương Văn Hòa đã vĩnh viễn ra đi sau lần hội ngộ đó, nhưng hình ảnh, tiếng nói  của các Thầy vẫn còn được ghi lại qua video kỷ niệm này.

Xin cám ơn bạn Nguyễn Văn Quyền đã gởi cuồn video này qua đường bưu điện đến tay tôi (năm 1995) và tôi còn gìn giữ cho đến ngày hôm nay (25 năm sau) để “số hóa” (digitalize) tài liệu này và thân mến gởi đến quý Thầy Cô và các bạn qua kênh Youtube.

Trong tất cả các lời phát biểu của buổi họp mặt này, đáng chú ý và cảm động nhứt là bài thơ của Thầy Lê Văn Quới ưu ái viết tặng cho nhóm môn sinh chúng ta. Tôi xin chép lại như sau:

CHỈ CÒN LẠI TRONG TÔI

Tuổi 50 – có nhiều đêm mất ngủ 

Trăn trở chuyện ngày qua – thao thức chuyện bây giờ

30 năm giữa đời – lãng đãng một cơn mơ

Trong chớp mắt biết bao là biến huyển

 

Cái thực, cái hư tháng ngày ẩn hiện

Mình tự hỏi mình – còn lại gì đây?

Địa vị, tiền tài trắng lắm đôi tay

Mắt xanh trắng ai liên tài, biệt nhãn!

 

Chỉ còn lại trong tôi – như những tia lửa sáng

Sáng trong đêm mất ngủ đến nao lòng

Nhớ cái thuở vào đời mắt sáng lòng trong

Tình sư đệ sao mà cao đẹp quá!

 

Nhớ   ĐỨC, nhớ   QUYỀN, nhớ   HỒ, nhớ   KHẢI

Nhớ   SƠ, nhớ   HỪNG, nhớ   THUẬN, nhớ   LIÊM

Chỉ gợi một,  sao hiện về rạng rỡ

Chỉ nhắc 1 người - lại ngập biển yêu thương!

 

Tưởng chỉ giấc mơ – đâu ngờ lại thực

Hạnh phúc biết bao – khi mỗi năm 1 cuộc tao phùng

Mỗi năm – tóc có thể bạc nhiều hơn, mắt có thể mờ hơn

Và có thể mỗi năm, một số người lại vắng

 

Nhưng có hề gì - lẽ dinh hư tiêu trưởng

Khi mỗi lần chia tay – lòng lại sáng trong hơn

Khi mỗi lần chia tay – giữ lời hẹn keo sơn

Hẹn tai ngộ bên chiếc nôi tình nghĩa

 

Vì chính nơi đây - tất cả chúng ta

Đã bắt thời gian quay ngược

Ngồi bên nhau

Cùng hát

Nhìn nhau cười

Nghe nhau nói

Chuyện cổ kim hòa điệu thắm tình!

 

Vì có trở lại nơi này

Ta mới gặp lại chính ta

Mới sống thực giữa đời nhiều mộng mị

Mới thấy những trái tim tưởng khô cằn bỗng dưng trẻ lại

 

Xin cảm ơn các em!

Xin cảm ơn các em!

Đã cho tôi một hạnh phúc tuyệt vời

Ấm nồng tình sư đệ xanh tươi!

 

Cần Thơ ngày 30-4-1995

GS Lê Văn Quới

 

 


 

 

Sunday, August 30, 2020

 

Tưởng-Niệm GS PHÙNG-QUANG-LỘC (1937-2016)
Thanh Khải·Monday, 22 April 2019·48 minutes139 reads
Suốt 7 năm theo học ở trường Trung Học Tổng Hợp Phan Thanh Giản Cần Thơ từ năm 1968 đến năm 1975, đã có nhiều Thầy Cô vẫn lưu lại những ấn tượng tốt đẹp trong ký ức của tôi sau gần nửa thế kỷ trôi qua và bốn thập niên lưu lạc xứ người.
Từ lâu tôi vẫn thường tìm cách liên lạc và theo dõi những tin tức, sinh hoạt của các Thầy Cô từng giảng dạy ở trường Trung Học Phan Thanh Giản Cần Thơ bằng mọi cách. Đột nhiên, một ngày nọ tôi đọc được những lời này của Thầy Phạm Khắc Trí báo tin trên trang nhà ptgdtdusa bên Mỹ:

Như vậy là thầy Phùng Quang Lộc đã vĩnh viễn ra đi. Bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ ở những năm tháng dưới mái trường Phan lại hiện về trong tôi với nhiều cảm giác bồi hồi, xúc động.
Năm đệ thất (niên khóa 1968-1969) lớp 6A2 của chúng tôi được thầy Mai Bá Qui dạy môn Việt Văn. Lên đệ lục được cô Nguyễn Thị Kim Sa dạy Việt Văn nửa năm đầu phần cổ văn như trích đoạn tác phẩm “Bích Câu Kỳ Ngộ” và những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Đến đệ nhị lục cá nguyệt (sau này gọi là Học Kỳ 2), thầy Phùng Quang Lộc bắt đầu dạy chúng tôi môn Văn Xuôi Hiện Kim (mỗi tuần 2 giờ) gồm những bài văn miêu tả động vật, tả người, tả cảnh. Các thầy cô khác gồm có thầy Phan Văn Đặng và cô Phùng Thị Ba dạy môn Công Dân Giáo Dục, cô Phạm Thị Đức Hạnh dạy môn Sử Địa (cô dạy trọn năm lớp 6 và nửa năm đầu lớp 7). Nửa năm sau đổi qua thầy Nguyễn Tấn Lực dạy Sử Địa. Môn Anh Văn thì có thầy Nguyễn Văn Quang dạy nửa năm đầu và thầy Nguyễn Hồng Vân dạy nửa năm sau. Môn Toán được cô Nguyễn Thị Kim Sa dạy và Lý Hóa do cô Lê Thị Hồng Loan phụ trách, kiêm phần Giáo Sư Hướng Dẫn cho lớp 7A2. Cô Trương Thị Thanh Đào dạy Vạn Vật và bà Lâm Minh Quang dạy môn Âm Nhạc.
Một trong những vị thầy đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp cho lớp chúng tôi là thầy Phùng Quang Lộc. Thầy Lộc đã dạy ở trường Phan Thanh Giản từ những năm đầu thập niên1960 cùng với các thầy Nguyễn Đình Sửu, Trần Đức Thắng, Nguyễn Như Hùng, Mạc Kỉnh Trung, Phan Thanh Thư, Vương Công Hi, Cao Văn Tư, Đoàn Văn Trương … Tháng 6, năm 1963 Thầy nhập ngũ khóa 16 Sĩ Quan Thủ Đức và phục vụ trong quân đội với chức vụ giảng viên ở trường Võ Bị Đà Lạt. Năm năm sau Thầy xin giải ngũ với cấp bậc Đại Úy. Sau đó Thầy xin trở về dạy học ở trường Phan Thanh Giản Cần Thơ.
Đầu năm 1970, Thầy Lộc phụ trách môn Việt Văn cho lớp 7A2 của chúng tôi. Năm đó, Thầy khoảng chừng hơn 30 tuổi, tướng tá cao ráo, oai vệ và nghiêm trang như tác phong của một sĩ quan quân lực VNCH nên Thầy rất được đám học trò nam sinh chúng tôi thán phục và ngưỡng mộ. Trong giờ Việt Văn của Thầy, ít ai dám cười giỡn mà tất cả đều chăm chú lắng nghe Thầy giảng bài. Nhiều bạn vẫn còn nhớ đến cách Thầy Lộc dạy văn xuôi “miêu tả loài vật”. Mỗi bài văn trích giảng được Thầy dạy rất kỹ và phân tích thật tỷ mỉ từng chi tiết .
Hơn 40 năm sau, người bạn học cùng lớp với tôi là Nguyễn Trung Quân, hiện đang sinh sống ở Hoa-Kỳ, đã nhắc về Thầy Phùng Quang Lộc như sau:
Thầy lúc nào cũng đi chậm rãi nhưng oai vệ, như đang suy nghĩ chuyện gì, chẳng thua gì các nhà triết gia tôi hay tưởng tượng trong đầu mình lúc ấy. Tôi có ước mơ, khi mình lớn lên, mình sẽ đi đứng oai vệ như vậy. Bạn bè ai cũng biết tôi hay khù khù cái lưng. Tôi không quên bài lớp 8 “Tôi đi học" của nhà văn Thanh Tịnh mà thầy bắt từng đứa đứng lên đọc to và cắt nghĩa sự hiểu biết của mình. Một bài thôi, học trên ba tháng, đứa nào cũng ngán tới cần cổ. Thầy Lộc nhìn đám học trò chắt chắt miệng và thốt lên câu bất hủ "Tụi mày đứa nào cũng mặt mày tăm tối chứ không phải ưu tú". Lên lớp 9, thầy dạy Công dân Giáo Dục và Hán văn. Tôi còn nhớ nhiều bài như – “Tử viết: tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận" (hết trích thơ của Quân).
Trong khi đó, theo ký ức của một đàn anh học trường PTG niên khóa 1961-1962 là anh Diệp Minh Tâm (ở Canada, anh của bạn Diệp Tấn Phong 12A4) đã tường thuật lại như sau trên một Đặc san PTG-ĐTĐ:
“Ở lớp Đệ Ngũ này tôi học Việt văn với thầy Lộc mà tôi thích nhất trong số các giáo sư dạy Việt văn suốt quãng đời trung học của mình. Ông giảng rất hay, với tất cả sự hùng hồn nồng nàn của người yêu thơ văn. Ông lại giảng giải rất nhiều điển tích bằng lời kể chuyện hấp dẫn, nên giờ dạy của ông là cả sự hào hứng lôi cuốn.
Tôi còn nhớ thầy kể nguyên cuộc đời của Bách Lý Hề (có sách gọi là Bá Lý Hề) từ những lúc trôi nổi lận đận đây đó tuy có tài nhưng không được ai biết để tin dùng, cho đến tuổi khoảng 70 mới được chức Tể Tướng.
Thầy Lộc thường cho câu hỏi để học sinh về nhà làm, kỳ sau thầy có thể gọi đứng lên đọc cho cả lớp nghe, rồi cho điểm. Có lần tôi được điểm 14 là số điểm cao hiếm có thời bấy giờ, được bạn bè cùng lớp trầm trồ, vì xu hướng điểm Việt văn cho trong các kỳ thi hay trong lớp rất thấp. Tôi luận về sự ám ảnh trong tâm tư, lấy ví dụ của câu chuyện một người bị ám ảnh cứ thấy mặt trời chói chang đi theo mình, đi đâu cũng thấy mặt trời đi theo. Chuyện này ngay lúc đó tôi cũng không nhớ đọc ở đâu, sách nào, nhưng thầy gật đầu khen thí dụ hay, hẳn là từ một tác phẩm nổi tiếng nào đó. Tôi có tật mang trong đầu nhiều mẫu truyện, lời thơ, câu phát biểu... nhưng không còn nhớ xuất xứ hay tác giả. Nhiều khi bị thất lợi vì lộ vẻ như có "kiến thức nửa mùa", nhưng có người nói như thế mới là kiến thức của riêng mình sau khi đã được hấp thụ và tổng hợp!
Khi tôi bị bắt phải đi học quân sự học đường năm thứ hai đại học (6 năm sau), thì thầy Lộc là một trong những giảng viên. Lớp nghe giảng quá đông (tập họp từ các trường khác nhau), tôi chưa có cơ hội đến chào thầy, lại nghĩ chắc thầy đâu nhớ đến mình. Nhưng thầy lại nhớ, gọi tôi đến, kêu đúng tên tôi mà hỏi chuyện!”
Sau này khi ra hải ngoại và định cư bên Mỹ, cô Đoàn Thị Tâm, cựu giáo sư Vạn Vật đã hồi tưởng lại những ngày dạy học ở trường PTG Cần Thơ niên khóa 1972-1973 như sau:
Đó là những ngày vui hiếm có và cũng là khoảng thời gian duy nhất trong đời, tôi được sống với bạn bè trong nhà trọ, xa gia đình, lại mới đi làm, đủng đỉnh có chút tiền nên tha hồ sắm sửa, tiêu xài. Bây giờ nhớ lại, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Lại thêm, thỉnh thoảng, các anh giáo sư trẻ kéo nhau tới thăm tụi tôi.
Tôi còn nhớ một số các anh dạy Anh văn như anh Kháng, anh Huệ, anh Kiểm. Anh Kháng cao, ăn nói lịch sự, từ tốn. Anh Kiểm thì liếng thoáng, thích nói đùa.Cả hai anh là người Bắc, còn anh Huệ hình như người Trung, đẹp trai, tính tình bộc trực. Dạy Việt văn thì có anh Chung Phước Khánh, người Nam, chân thật, thích nói chuyện thơ văn. Dạy Sử Địa có anh Nghị người có vẻ hiền, trầm lặng, chỉ ngồi cười thôi.
Các anh rất vui tính, xuề xòa, "mỗi ngươi một vẻ, mười phân vẹn cả mười". Quả thật, đúng như người ta nói: các ông thầy giáo lúc nào cũng hiền lành, đứng đắn. Hình như các anh sống ngay trong trường như ông Phùng Quang Lộc, người Nam dạy Triết. Ông Lộc lúc đó được coi như lão làng, dạy lâu năm ở đây, tính tình điềm đạm, nói năng chậm rãi. Qua câu chuyện, tôi đoán ông là người có tài nhưng bất đắc chí. Tôi coi ông như bậc thầy, hỏi thăm ông chuyện này chuyện nọ.
Trong trường, đến giờ nghỉ, các thầy cô vô phòng giáo sư uống nước trà nghỉ mệt. Tôi không còn nhớ nhiều các chị dạy chung ngoại trừ chị Đức Hạnh, chị Nguyện, chị Bích Đào. Chị Đức Hạnh người Bắc, dạy Sử Địa, có dáng mệnh phụ, lúc nào cũng trang điểm kỹ lưỡng, áo dài mượt mà tươm tất. Chị thích nói chuyện và hay chỉ vẽ tôi như một bà chị ruột. Tôi còn nhớ chị hay khuyên tôi nên trang điểm đánh phấn vì ngoài việc làm đẹp còn có tác dụng ngăn bụi bặm vào da. Chị lịch lãm, kinh nghiệm và cởi mở.
Có một lần, ông Lộc trổ tài coi bói, bảo tôi và chị đưa tay cho ông đoán số mệnh, tôi mắc cở không dám, còn chị Hạnh thì tỉnh bơ xòe tay ra. Hình như sau đó tôi phải lên lớp nên không biết ông đoán đời chị như thế nào. Có điều mới đây tôi nghe nói hai người đã thành vợ chồng sau khi miền Nam lọt vào tay Cộng Sản, tha phương nước ngoài và hiện sống ở Pháp.Tôi thành thật mừng cho anh chị.” (hết trích).

Còn nhớ lúc ấy, học trò chúng tôi chỉ chừng 12, 13 tuổi mà thôi, hay tụ tập từng nhóm ngoài hành lang, sân trường trong giờ ra chơi và hay bàn tán về các thầy cô trẻ tuổi đẹp trai, đẹp gái, dáng dấp lịch lãm, còn độc thân. Chúng tôi hay ghép đôi các Thầy Cô với nhau như Thầy Lộc và cô Hạnh hay cô Hạnh và Thầy Lực (cũng dạy Sử Địa). Đó là những mơ ước vu vơ của đám học trò “nhứt quỷ nhì ma” chúng tôi.
Thời gian lặng lẽ trôi mau. Sau cuộc “đổi đời bi thảm”, Thầy Cô bạn bè ly tán, trường cũ đã thay tên. Tượng đài của cụ Phan Thanh Giản ngay giữa sân trường cũng bị đập phá tan hoang. Bao nhiêu sách vở, tài liệu quý giá của Thư Viện hai trường PTG, ĐTĐ cũng bị đem ra thiêu rụi giữa sân trường. Tất cả những gì liên quan đến trường xưa tưởng chừng như chìm dần vào quên lãng của mọi người trong thời “bao cấp” đang diễn ra khắp nước VN.
Vậy mà hơn 20 năm sau đó, các đồng môn niên trưởng của hai trường Đoàn-Phan ở hải ngoại đã hình thành được vài nhóm ái hữu PTG-ĐTĐ để cùng nhau tổ chức những buổi họp mặt ở Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu và phát hành Đặc San từng năm ở từng đại hội.
Nhờ đó, tin tức về các Thầy Cô hai trường Phan-Đoàn mới được loan truyền và chia sẻ với nhau. Tuy nhiên, những tin tức về thầy Phùng Quang Lộc và cô Đức Hạnh lại nhận được rất ít, vì các đồng môn vẫn không thấy Thầy Cô tham dự các Đại Hội Ái Hữu Phan Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm từ 18 năm nay.
Mãi đến năm 2004, trên Đặc san PTG-ĐTĐ Úc Châu (số 4) có đăng một bài thơ của thầy Phùng Quang Lộc và trích đoạn email của Thầy gởi cho anh Bùi Hữu Trạng là Trưởng ban đại diện cho Ái Hữu PTG-ĐTĐ Úc Châu như sau:
Em Trạng quí mến,
Rất cảm động nhận được email của em, nhờ em chuyển đến quý Thầy Cô và các bạn học cũ lời chào mừng và thăm hỏi của tôi. Về bài cho Đặc San 4, Thầy còn giữ được bản sao bài thơ gởi cho người bạn thân cũ là Thầy Vương Công Hi ở Mỹ nhân dịp Tết “con khỉ” 2004. Thầy gởi đến các em gọi là chút ngậm ngùi đối với trường xưa, trò cũ.”
Thân ái,
Phùng Quang Lộc
Năm sau, 2005, cũng trên Đặc san của cựu học sinh PTG-ĐTĐ Úc Châu tôi lại đọc được bài “CHUYỆN THẦY TRÒ” của Thầy Phùng Quang Lộc gởi đăng với nhiều chi tiết rất lạ lùng và thú vị liên quan đến những học trò cũ của Thầy. Xin trích nơi đây một đoạn văn có tiểu mục là
Thập Nhị Nhân Duyên” : BÙI THẾ TRƯỜNG & DƯƠNG VĂN ĐẦY.
“Em Trường thuộc hạng học sinh xuất sắc. Em là một trong số rất hiếm hoi học trò viết thư thăm tôi sau khi đã rời trường hơn 10 năm. Sau năm 75, tôi gặp lại em ở Sài Gòn. Em báo tôi một tin nóng hổi: “Thầy ơi, thằng Dương Văn Đầy hiện đang là huyện ủy ở Quận 10”. Tôi cười hỏi hửng hờ “Thế à ?” Câu chuyện rẽ qua ngã khác, vì lúc đó cho tới bây giờ, tôi không tài nào hình dung được mặt mũi của em Đầy ra sao thành ra không thể hỏi thêm điều gì về em. Hai thầy trò chia tay mà chảng có ý-kiến gì về tương-lai, cũng chẳng hẹn ngày gặp lại vì em lúc đó, chắc cũng như tôi, đang sống đời vô nhiệm–sở, vô gia-cư.
Gần cuối năm, tôi và một chú nhỏ ngồi ở quán nước bến xe Cần Thơ, chờ người đến rước xuống tàu để ra khơi. Anh bạn phụ-trách giao-liên, hớt hơ hớt hải giao cho tôi một xách tay đầy ắp giấy tờ.
-Anh giữ hộ cho tôi cái xách tay. Cẩn thận! Toàn là giấy tờ quan trọng. Chút xíu, tôi trở lại. Chuyến đi bị trục-trặc, phải hoãn. Anh làm ơn ....đưa cháu nhỏ này về Sài Gòn, nhà số ...đường ...
Cô bán quán nước ngó tôi và cái xách tay lom lom. Trời đất! Nếu không có chú nhỏ cùng cái xách tay quái ác này thì tôi đã bỏ đi ngay. Hơn 5 phút sau, một chiếc xe thắng gấp trước quán. Một thanh niên bước xuống xe, đi thẳng đến bàn tôi, kéo ghế ngồi, tự giới thiệu:
-Tôi vừa đi bắt một đám vượt biên ở Rạch Giá mới về, mệt quá.
Quay sang cô bán nước, anh gọi:
-Cho tôi một trái dừa.
Vừa khuấy ly nước dừa, vừa nhìn soi mói cái xách tay của anh bạn vừa gởi, viên chức công an hỏi tôi:
-Anh ở đâu, làm gì ở đây?
Tôi đáp:
-Tôi và cháu nhỏ chờ xe về Sài Gòn, tôi ở quận 10.
-Ai là huyện ủy ở quận 10?
Tôi trả lời chậm rãi và chắc chắn:
-Dương Văn Đầy, nó là học trò cũ của tôi ở trường Phan Thanh Giản.
Anh công an nhìn tôi, không nói gì, uống cạn ly nước dừa, gọi cô bán quán tính tiền, rời khỏi bàn, bước ra xe đi thẳng.
Cho đến nay, mỗi khi nhắc lại chuyện cũ, tôi vẫn thầm cám ơn hai em Bùi Thế Trường và Dương Văn Đầy. Còn viên chức công an, tôi không biết anh đã vô tình hay cố ý làm lơ. Nhưng tôi đoán chắc là anh cũng đã có một thời theo học ơ trường Phan. Ngẫm ra, hai chữ duyên nghiệp không phải chỉ thuần là màu sắc triết-học để tô đậm nét văn-chương.
Tháng 9-1999
Phùng Quang Lộc”
Hai năm sau khi đọc được bài văn này, vào tháng Sáu năm 2007, Thầy Phạm Khắc Trí đã viết một đoạn email như sau để gởi Ban Biên Tập trang nhà ptgdtdusa (xin trích):
“… Chúng tôi mới ở Pháp về tuần trước. Ở Paris, đã gặp được anh Dương Hồng Đức giáo sư Pháp Văn PTG và em Phạm Minh Toàn CHS PTG 1970 là con của cố GS Phạm Minh Đức GS Sử Địa PTG. Em Toàn hiện là Kiến Trúc Sư ở Paris. Em đã dành một ngày nghỉ, lái xe chở tôi đi Blois cách Paris khoảng 150 km, để gặp gia đình anh Phùng Quang Lộc GS Công Dân, Việt Văn và Triết PTG. Chị Lộc lại chính là Chị Phạm Thị Đức Hạnh GS Sử Địa PTG.
Không nói hết được nỗi vui mừng gặp lại nhau ở xứ người sau bao nhiêu năm xa cách. Các anh chị Đức, Lộc, Hạnh và em Toàn đều đã có một đời sống ổn định, con cháu học hành thành đạt, có nhờ tôi chuyển lời thăm hỏi đến mọi người và cũng bày tỏ sự cảm kích về những hoạt động kết nối tình đồng môn nghĩa sư đệ của đại gia đình PTG–ĐTĐ chúng ta ở bên này.
Anh chị Đức và anh chị Lộc ơi, ráng thu xếp qua đây ít nhất một lần cho vui để người bạn của các anh chị, tuy danh lợi có bao giờ ham muốn đâu, nhưng người bạn của các anh chị vẫn còn rất ham được uống café sáng, suốt một tháng liền, do Danh Nguyệt, đôi uyên ương thật dễ thương của đại gia đình PTG–ĐTĐ ở Houston khoản đãi như đã hứa, nếu tôi mời được các anh chị qua đây.”
Thật sung sướng và cảm động khi biết tin gia đình Thầy Phùng Quang Lộc và cô Phạm Thị Đức Hạnh đang sinh sống bình yên, khoẻ mạnh và hạnh phúc ở một thành phố nhỏ yên bình ngay trung tâm nước Pháp, dân số khoảng chừng 45 ngàn người, nơi có những lâu đài cổ từ thời Vua Louis XII như đã được mô tả trong tiểu thuyết “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” của văn hào Alexander Dumas. Nơi đó có dòng sông Loire hiền hòa uốn khúc và những trang trại trồng nho, những cánh đồng lúa mì bát ngát, cảnh vật nên thơ.
Từ đó đến nay, thắm thoát đã hơn 10 năm, các đồng môn quen biết vẫn không có thêm tin tức gì nữa về sinh hoạt của Cô Hạnh và Thầy Lộc cho đến ngày được tin Thầy Lộc đã “yên giấc ngàn thu”.
Rất tình cờ, tháng Ba năm nay một học trò cũ của cô Đức Hạnh là anh Nguyễn Trung Nam (anh của Nguyễn Trung Quân, lớp tôi) từ Mỹ báo tin vừa mới liên lạc được với cô Hạnh. Mừng quá, tôi liền hỏi thăm anh Nam số điện thoại của cô Hạnh để tìm cách “phỏng vấn” cô. Cô Hạnh rất vui mừng khi nghe tiếng nói của tôi qua điện thoại (ngày 20-03-2019). Sau những lời thăm hỏi thường lệ, cô bắt đầu thân mật trả lời những thắc mắc của tôi. Nhờ vậy tôi mới có dịp biết được sinh hoạt của gia đình Cô Thầy trong vài chục năm qua.
Cô cho biết Thầy Phùng Quang Lộc sanh năm 1937 tại Cai Lậy, Mỹ Tho. Mồ côi mẹ từ năm 8 tuổi khi Má của Thầy bị phi cơ Pháp sát hại năm 1945 thời kháng chiến, nên Thầy Lộc đã trải qua những tháng ngày thơ ấu rất gian nan, khổ sở. Ba của Thầy Lộc là một chức sắc trong Đạo Cao Đài ở Mỹ Tho. Đạo Cao Đài ra đời từ năm 1926 ở Việt Nam và có một hệ thống tổ chức Giáo Hội rất chặt chẽ và đa dạng. Ba của Thầy Lộc là một Phối Sư của đạo Cao Đài (Thứ tự chức sắc Nam Phái của Cửu Trùng Đài như sau: Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu, Lễ Sanh, Chức Việc, Tín Đồ). Những năm 1944, 1945 ba của Thầy Lộc đang đi ra miền Trung và miền Bắc làm công tác truyền giảng giáo lý Đạo Cao Đài, nên chỉ có Thầy Lộc và một người anh, một người chị lớn là ở nhà cùng với má của Thầy. Thời trung học, Thầy cùng với anh chị phải di chuyển nhiều nơi theo việc làm của Ba Thầy khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc. Nhưng anh em Thầy đã chăm chỉ học hành đàng hoàng.
Sau khi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm SG, Thầy được bổ nhiệm về trường PTG vào năm 1959, đi lính 5 năm (từ 1963) và sau Tết Mậu Thân được biệt phái trở về dạy học lại ở trường Phan. Đến khoảng cuối năm 1973 Thầy thuyên chuyển về dạy ở trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho và đầu năm 1975 giảng dạy ở Trường Sư Phạm Vĩnh Long. Sau 30-4-1975 Thầy Phùng Quang Lộc không còn tiếp tục dạy học như một số giáo sư khác mà luôn tìm cách vượt biên.
Riêng Cô Đức Hạnh thì tuy được sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Định, nhưng từ nhỏ Cô đã sống ở Hà Nội. Gia đình Cô di chuyển vào Nam trước khi đất nước chia đôi, vì Bố cô là một Kiến Trúc Sư tài giỏi. Ông được bổ nhiệm vào Sài Gòn Khoảng năm 1953 để thực hiện nhiều công trình ở đô thành Sài Gòn và có chức vụ cao cấp trong Ban Thiết Kế Đô Thị. Chính ông đã phụ trách việc chỉnh trang Bến Ninh Kiều thành một thắng cảnh nổi tiếng của thị xã Cần Thơ, nên lúc ấy Cô Hạnh đã từng học tiểu học ở trường Nữ Tỉnh Lỵ Cần Thơ một năm. Cô nhớ lúc ấy gia đình cô cư ngụ trong một căn nhà nền cao gần Bến Ninh Kiều mà sau này bị phá bỏ và cất lại thành quán Ngọc Lợi và sân đánh Tennis của Cần Thơ (trước năm 1975). Sau khi Bến Ninh Kiều được Ông Bộ Trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh khánh thành ngày 4 tháng 8 năm 1958, gia đình Cô Hạnh di chuyển về Sài Gòn. Bố của Cô Hạnh dự tính tiếp tục kiến thiết những thị xã của miền Tây như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Châu Đốc theo kế hoạch của chính phủ Ngô Đình Diệm. Thị xã kế tiếp được chỉnh trang sẽ là Long Xuyên là quê hương của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ. Nhưng một ngày nọ vào năm 1960, Bố của Cô Hạnh trên đường từ Sài Gòn về Long Xuyên công tác đã từ trần vì tai nạn xe hơi do người tài xế bất cẩn gây ra. Năm ấy Cô Hạnh nhận được hung tin khi đang theo học tại trường nữ trung học Trưng Vương ở Sài Gòn.
Tốt nghiệp xuất sắc ở Đại Học Sư Phạm SG, Cô Hạnh được ưu tiên chọn nhiệm sở và cô xin chọn về trường Phan Thanh Giản Cần Thơ năm 1968, vì nơi đây Cô đã từng sống những ngày thơ ấu yên bình với nhiều kỷ niệm khó quên.
Đầu năm 1975 cô Hạnh xin chuyển về dạy ở trường “đầm” Marie Curie SG cho đến năm 1977. Vì vậy, sau những ngày tháng “đổi đời” đám học trò PTG không còn thấy cô Hạnh hiện diện ở Cần Thơ. Hoàn cảnh gia đình, thân nhân của cô Hạnh cũng chịu nhiều mất mát, chia lìa. Chị của cô có một tiệm bán Thuốc Tây lớn cũng bị chính quyền mới tiếp quản, tịch thu toàn bộ sau những đợt “đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương.”
Những năm sau đó, cô Hạnh tìm cách vượt biên nhiều lần và cuối năm 1978 cô Hạnh bị bắt ở Hà Tiên trong một lần vượt biển thất bại. Thời điểm đó Khờ Me Đỏ đang đánh sang biên giới Việt Nam giáp ranh với Kampuchea, nên tất cả những người bị nhốt trong trại giam gần biên giới đều bị chuyển về Rạch Giá. Đó là lần đầu tiên một “tiểu thư đài các” như cô Hạnh được nếm mùi ngục tù cộng sản trong vài tháng. Sau khi được thả về Sài Gòn, cô lại tìm cách vượt biên lần nữa. Kỳ này cô liên lạc với những người bạn và vài học trò cũ của cô ở Cần Thơ để vượt biên theo diện “Đăng Ký Bán Chính Thức” dành riêng cho những người Việt gốc Hoa (được phép ra đi sau khi để lại tất cả tài sản, nhà cửa cho chánh quyền cách mạng và đóng lệ phí bằng vàng cho chủ tàu tổ chức vượt biên).
Chuyến đi này Cô dẫn theo một đứa cháu trai tên là Phạm Mạnh Hùng con của người anh lớn của Cô (cựu Sĩ Quan Không Quân VNCH). Cả hai Cô cháu phải xài căn cước của người Hoa Kiều và cùng với tất cả mấy trăm người tập trung lại vào ban đêm nơi “bến bãi” để được công an tỉnh Hậu Giang áp tải ra biển khơi thẳng đường đến đảo Côn Sơn. Tại đó, công an VC còn thâu vàng và nhét thêm vài chục hành khách nữa lên tàu trước khi hộ tống chiếc tàu này ra hải phận quốc tế, nên chuyến tàu vượt biên của cô rất nguy hiểm. Cô nói nếu ngồi trên tàu thò tay ra ngoài có thể chạm vào nước biển, vì tàu khẳm quá. Nhưng sao lúc ấy thật là may mắn? Những ngày trên biển khơi chuyến tàu không gặp sóng to gió lớn gì cả. Trời yên biển lặng, đúng là biển “Thái Bình Dương”. Thỉnh thoảng có những đàn cá heo bơi lượn sát bên hông tàu. Vài ngày sau, chuyến tàu vượt biên của cô đã đến đảo Pulau Bidong, Mã Lai Á một cách an toàn.
Vừa lên đến đảo tỵ nạn Bidong, cô gặp ngay trò Trương Tiếu Hy đã đến đó từ vài tháng trước. Mừng quá, trò Hy tiến lại chào cô và nói to “Cô ơi, ở đây có Thầy Phùng Quang Lộc cũng ở trên đảo này”. Rồi Trương Tiếu Hy liền nhanh chóng chạy đi kiếm thầy Lộc đến gặp cô. Đúng là “tha hương ngộ cố tri”. Gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách, tất cả mừng mừng tủi tủi. Cũng như đa số mọi người chung quanh, cô Hạnh lại có những nỗi lo lắng trước mặt và cảm thấy một tương lai mịt mờ đang đón chờ phía trước.
Nhờ Thầy Lộc có chân trong Ban Đại Diện của trại tỵ nạn Bidong, nên Thầy đã sắp xếp cho cô Hạnh và đứa cháu đến ở trong một túp lều khá khang trang trên đồi. Cô vẫn còn nhớ những sự phức tạp, khổ sở và lo âu, buồn chán trong những ngày đầu tiên trên đảo tỵ nạn đông đúc này.
Vào thời điểm đó, khoảng tháng hai năm 1979, ở đảo Bidong đã tràn ngập người tỵ nạn. Khoảng hơn 28.000 người chen chúc nhau tạm trú ở một phần của hòn đảo nhỏ xíu này. Tuy có ban Đại diện, phòng thông tin, trạm cứu thương, chợ trời. Nhưng ở đó cũng có những thành phần trộm cắp, cướp giựt… Họ đã trà trộn, đi “canh me” ở những chuyến tàu vượt biên và đến được nơi đây, khiến cuộc sống ở đảo là những chuỗi ngày đầy tuyệt vọng, lo âu và bất trắc, chưa thấy có chút gì lạc quan.
Dần dần cô Hạnh cũng làm quen với đời sống mới trên đảo. Ngày nào cô cũng gặp người quen, có cả gia đình Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Trung Quân cũng ở đảo từ trước và cô cũng gặp cựu Hiệu Trưởng Võ Văn Trí (sau này đi Canada) và rất nhiều học trò cũ của cô mà cô không sao nhớ hết. Cô cũng gặp chị em chủ nhân tiệm uốn tóc Mai Lan ở đường Phan Đình Phùng Cần Thơ, nơi cô là một thân chủ quen thường hay làm tóc ở đó.
Rất nhiều người tỵ nạn chờ đợi các phái đoàn phỏng vấn để xin đi những nước lớn như Mỹ, Canada và Úc. Cô Hạnh cũng có thân nhân bên Canada và Mỹ, nên Cô có thể nộp đơn chờ đợi phái đoàn các nước ấy phỏng vấn. Nhưng có lẽ định mệnh đã khiến cho cô và Thầy Phùng Quang Lộc không hẹn mà gặp nhau trên đảo tỵ nạn Bidong này và sau đó đã nên duyên nợ “phu thê” với nhau trên đất Pháp. Đúng là một đôi uyên ương lý tưởng “trai tài gái sắc” mà đám học trò chúng tôi ngày xưa đã từng “se duyên” hai Thầy Cô này lại với nhau (trong mơ ước) mà không thành. Đến nay, số trời dung rủi cho hai tâm hồn cô đơn này có dịp tái ngộ với nhau nơi đất lạ quê người. Vài tháng nữa chầm chậm trôi qua, số người trên đảo tỵ nạn Bidong đã tăng lên đến mức kỹ lục hơn 40,000 người khiến cho môi trường sống trên đảo càng trở nên tồi tệ.
Lúc đó, Thầy Cô cũng như nhiều người tỵ nạn khác đều muốn rời khỏi nơi chốn phức tạp và đầy bất ổn này càng sớm càng tốt để đến một đệ tam quốc gia tìm cơ hội xây dựng đời sống mới.
Thầy Lộc có những đứa cháu ruột đã đi Pháp du học từ trước năm 1975, nên Thầy được ưu tiên bảo lãnh đi Pháp mà không cần chờ đi Mỹ theo diện cựu quân nhân biệt phái hoặc công chức của chính phủ VNCH. Thầy được lên danh sách đi Pháp trước Cô. Vài tháng sau, khoảng tháng 7 năm 1979 Cô Hạnh rời đảo tỵ nạn Pulau Bidong sang trại “chuyển tiếp” Singapore và lên máy bay sang Pháp đoàn tụ cùng với Thầy Lộc. Năm ấy Cô Đức Hạnh được 34 tuổi và thầy Phùng Quang Lộc đúng 42 tuổi.
Sau khi ổn định cuộc sống nơi xứ sở yên bình, Thầy Cô đã kiếm được việc làm, tuy không còn có dịp dạy học như ngày xưa. Được biết ngày xưa Thầy Lộc có trong tay ba cái bằng cấp Cử Nhân là Luật Học, Triết Học và Văn Khoa. Nhưng khi qua Pháp các văn bằng này không được chánh phủ Pháp công nhận. Tuy vậy, Thầy Lộc đã chịu khó đón xe lửa đi thành phố Tours, cách Blois sáu chục phút học lại một năm ở phân khoa Luật để được cấp văn bằng tương đương. Sau khi học xong, Thầy đã được nhận vào làm Thanh Tra ở ngân hàng Bank De France liên tục 20 năm cho đến khi về hưu. Những năm tháng sau khi hưu trí, Thầy Lộc thường hay đọc sách, nghiên cứu kinh sách, nghiền ngẫm giáo lý đạo Cao Đài mà ít chịu đi xa, ra khỏi thành phố.
Năm 1982 Cô Hạnh được tin Mẹ của cô đã từ trần ở Sài Gòn. Năm sau, Cô Hạnh sanh được một đứa con trai và Thầy cô đặt tên VN là Phùng Quang Lương Việt. Năm nay người con trai duy nhứt của Thầy Cô đã được 36 tuổi, là một Tiến sĩ khoa học, hiện đang giảng dạy tại một trường Đại Học ở thành phố Lyon và làm việc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Thỉnh thoảng anh cũng được các trường Đại Học thỉnh giảng, đi thuyết trình ở Mỹ, Canada và Nhựt Bổn. Anh mời Cô Thầy theo anh du lịch chơi, nhưng Thầy Lộc không thích đi xa (dù lúc ấy Thầy còn kkhoẻ mạnh), nên Thầy Cô chưa bao giờ ra khỏi nước Pháp. Cô cho biết anh Lương Việt vẫn “độc thân vui tính”, không biết chừng nào anh ta mới chịu lập gia đình?
Khi tôi hỏi “Trong 40 năm nay, sau khi rời VN qua Pháp, Thầy Cô có dịp nào hoặc có ý định trở về thăm quê hương hay không?” Cô tâm sự là Thầy không thích về VN đâu, vì gia đình Thầy đều có lập trường chống Cộng. Anh ruột của Thầy là Đại tá Không Quân Phùng Ngọc Ẩn khá nổi tiếng, em có biết không? Tôi bỗng giựt mình, vì không ngờ và chẳng bao giờ biết là Thầy Lộc có một người anh rất nổi tiếng ở VN ngày xưa và ở hải ngoại sau này. Cô cho biết sau ngày miền Nam thất thủ, Đại Tá Phùng Ngọc Ẩn đã không chịu buông súng đầu hàng mà cùng với một số chiến hữu vào mật khu chiến đấu ở Phan Rang cho đến khi bị CS bắt được và đưa ra Bắc giam cầm, tù ngục trong suốt 13 năm trường. Sau đó ông được qua Mỹ định cư theo diện HO và đã mất vài năm trước đây.
Sau khi nghe Cô kể chuyện về gia đình Thầy, tôi bèn dò trên internet và tìm được đoạn văn tiểu sử của Đại Tá Phùng Ngọc Ẩn như sau:
Nhận được tin buồn
Đại tá Phi công Phùng Ngọc Ẩn
Sinh năm 1934, Mỹ Tho, Việt Nam
Mãn phần ngày 15/06/2013, tại San Diego, CA
Hưởng thọ 80 tuổi.
Chỉ huy trưởng Căn Cứ 92 KQ Pleiku, thập niên 1960
Cựu Trưởng phòng Hành Quân Chiến Cuộc, Bộ Tư Lệnh KQ
Tù cải tạo 13 năm (1975-1988) tại các trại Hà Tây và Xuân Lộc.Định cư Orlando 1991 và gia nhập VAALA (Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ) Florida 1998.
Niên Trưởng Phùng Ngọc Ẩn từng là một cây viết KQ từ trước 1975, ngoài bút hiệu Thần Phong Phùng Ngọc Ẩn, ông còn dùng bút hiệu khác là Cà Nông 20.Trước 1975, cộng tác các báo: Đời Mới, Nguyệt San Lướt Gió, Văn Nghệ Tiền Phong, Đặc San Lý Tưởng, Tuần báo Đời, Các nhật báo Lập Trường, Tiền Tuyến , Diều Hâu. Tác phẩm trước 1975: Bay Trong Hoàng Hôn (1968, tuyển tập), Kẻ Lạc Ngủ (1972, truyện), Cánh Chim Ngoại Biên (1974, truyện), Những Mãnh Trời Khác Biệt (tuyển tập, viết chung với Dê Húc Càn, Trần Văn Minh, Đào Vũ Anh Hùng....), Ngoài Chân Mây (viết chung Nguyễn Kim Long) Cẩm Xuân, Tháng 3 Cuộc Đời (viết chung KQ Lê Văn Trước). Cộng tác sau 1975: Lý Tưởng, KQ Hải ngoại, 1992, Ly Hương, Đặc San Cộng đồng VN Trung tâm Florida, 1998, Tuyển Tập VAALA – Florida, 1998, Con Ốc Mượn Hồn, tuyển tập thơ văn, 1999.
Cầu xin hương linh Thần Phong Phùng Ngọc Ẩn, cánh chim Tự Do, thảnh thơi trong bầu trời ngan ngát hương sen Tịnh Độ...(Bắc Đẩu Võ Ý 06/17/2013).
Không ngờ Thầy Lộc có một người anh “văn võ song toàn” rất nổi danh như thế. Cô tâm sự tiếp “Bỗng dưng từ năm 2010 trí nhớ của Thầy Lộc bị giảm thiểu dần dần theo triệu chứng của bịnh “lẫn” hay là Alzheimer (bịnh “sa sút trí tuệ”). Tuy Thầy không nhớ nhiều việc quá khứ, hiện tại chung quanh, nhưng lúc nào Thầy cũng nhận ra Cô và Cô vẫn săn sóc cho Thầy cho đến những ngày cuối cùng, tuy rất vất vả cực nhọc vì không có ai khác giúp đỡ cho Cô. Thầy Lộc lại không thích di chuyển vào các dưỡng đường của Pháp. Trước kia khi còn tỉnh táo, Thầy thường dặn Cô rằng khi Thầy mất đừng nên báo tin cho bạn bè, đồng nghiệp hay học trò của Thầy hay tin. Vì vậy 2 năm sau ngày Thầy mất, Cô mới liên lạc báo tin buồn với Thầy Phạm Khắc Trí như đã nhắc đến ở đầu bài này. Đúng là Thầy Lộc hưởng thọ 79 tuổi và từ sau năm 1975 cho đến ngày qua đời, chưa bao giờ hai anh em Thầy có cơ hội gặp lại nhau lần nào trên đất Mỹ.
Thầy Lộc mất ngày 21 tháng Tư năm 2016. Tang lễ của Thầy diễn ra trong lặng lẽ và đơn giản. Chỉ có hai mẹ con Cô Hạnh và những bạn hữu trong hội người Lào tỵ nạn cộng sản ở thành phố Blois tham dự, vì nơi đó rất ít người VN cư ngụ. Lúc sinh thời Thầy sống ẩn dật, không thích giao thiệp nhiều và dặn dò khi mất đừng báo tin cho thân nhân, nên các cháu của Thầy và Cô ở Paris và các tỉnh khác cũng không biết được “tin buồn” mà về tham dự tang lễ. Tuy nhiên, khi còn làm việc và lúc nghỉ hưu, Thầy thường giúp đỡ những người Lào hiền lành xung quanh khu phố trong việc điền đơn, viết thư từ khiếu nại bằng tiếng Pháp, nên họ rất biết ơn của Thầy và họ đã đến chia buồn với mẹ con cô trong lúc “tang gia bối rối”.
Cô Hạnh nói chỉ còn vài tuần nữa là đám giỗ Thầy (mất đúng 3 năm) .Tuy năm nay cô đã 74 tuổi, nhưng cô vẫn còn khoẻ mạnh, yêu đời, thỉnh thoảng vẫn đi Lyon thăm đứa con trai đang làm việc tại đó. Hy vọng gần cuối năm nay Cô và con trai Cô sẽ thu xếp để qua Canada và Hoa-Kỳ thăm các cháu của Cô một chuyến.
Cô Hạnh cũng không quên hỏi tôi về tình cảnh gia đình, sinh hoạt của tôi và các bạn đồng môn PTG. Sau cùng, Cô nhờ tôi nhắn lời thăm hỏi đến tất cả Thầy Cô và học trò trường Phan Thanh Giản Cần Thơ (mà tôi liên-lạc được) và chúc sức-khỏe, hạnh-phúc đến mọi người.

LA THANH KHẢI
(PTG n/k 1968-1975)